Pulau Bidong có một lịch sử khác thường từ một trại tỵ nạn, hải đảo này đã âm thầm trở nên một điạ điểm thăm viếng cho các du khách cựu thuyền nhân. Đó là điều ghi nhận được Bộ Trưởng Văn Hóa, Thanh Niên và Du Lịch, Datuk Paduka Abdul Kadir Sheikh Fadzir trình trước Quốc Hội hôm thứ Tư vừa qua. Tuy vậy, vẫn chưa có một điều nào được thực hiện để bảo tồn trại tỵ nạn cũ, một thời đông đảo. Phóng viên Meng Yew Choong.
Lần trở lại Bidong, tôi được nhắc nhở lần nữa về sức mạnh của thiên nhiên và những thuyền nhân chúng tôi đã may mắn đến cỡ nào, sống sót qua chuyến hải hành dài, trên một con thuyền mong manh dài 10,5 mét chứa 61 người. Tôi nhớ đến những người đàn ông Mã Lai da ngăm đen, quấn sà rông (sarong) đi trên hai chiếc thuyền, đã rất tử tế cho chúng tôi nước uống và thực phẩm. Đúng thế, tôi đã gặp lại họ trong chuyến viếng thăm tháng Ba vừa qua. Họ là những vị anh hùng, những thiên thần trong tim và tôi sẽ không bao giờ quên những hình ảnh của họ. Cũng trong chuyến đi này, tôi muốn nói, hầu hết tất cả đều là những người tốt. Một ấn tượng đẹp đẽ khi biết rằng, có những người không quen biết hoặc chưa từng gặp vẫn mở rộng vòng tay giúp đỡ cho chúng tôi tạm trú. Daniel Nguyễn, cựu thuyền nhân Pulau Bidong.
Daniel Nguyễn là một trong số 1,6 triệu người Việt Nam, từ năm 1975 đến cuối thập niên 1980s, đã làm một cuộc hành trình đầy nguy hiểm, băng qua biển Nam Hải tìm tự do. Gần 255 ngàn người tỵ nạn đã đến được bờ biển Mã Lai và đa số được đưa đến hải đảo Pulau Bidong thuộc Terengganu.Nhưng tên Bidong nghe rất xa lạ trong thế hệ trẻ người Mã Lai sau này. Một người bạn học của tôi, đã gần 30 tuổi đời vẫn chưa hề nghe nói đến hải đảo này. Một số ít người khác, sự hiểu biết của họ rất mơ hồ, không hoàn toàn biết rõ những chuyện xẩy ra trên hải đảo rộng 260 mẫu.
Nói sơ qua về lịch sử, đợt thuyền nhân (danh từ thường dùng để gọi những người tỵ nạn bằng thuyền) đầu tiên rời bỏ miền nam Việt Nam, sau khi cộng sản miền bắc chiếm được thủ đô Saigon năm 1975. Đến năm 1978, tình hình Việt Nam trở nên bết khi người Trung Hoa xâm lăng khu vực phiá bắc Việt Nam, gây nên sự nghi kỵ nhóm thiểu số người Việt gốc Hoa. Trong khi tài sản của họ bị chính quyền tịch thâu, việc làm ăn buôn bán của họ gần như bị chận đứng, nhiều người Hoa đã mua “giấy thông hành” ra khỏi nước, trả bằng vàng để được an toàn ra đi.
Và từ đó, đưa đến một phong trào di cư khổng lồ của người Việt Nam, trên những chiếc thuyền mong manh, vượt đại dương đi tìm một tương lai tốt đẹp hơn. Đó cũng là phương tiện để Daniel Nguyễn đến Pulau Bidong.
Ông ta đến bờ biển Mã Lai vào buổi tối hôm 14 tháng Tư năm 1980, và hai ngày sau được đưa đến đảo Pulau Bidong. Bẩy tháng sau, Daniel Nguyễn giã từ hải đảo để đi định cư tại Hoa Hỳ.
Mặc dầu điều kiện sinh sống trên đảo không được đầy đủ nhưng Pulau Bidong là một nơi dung thân cho những ai trốn tránh sự đàn áp của chế độ cộng sản, vào thời điểm đó. “Nhìn lại, thời gian tôi trải qua nơi trại tỵ nạn Pulau Bidong là một giai đoạn đặc biệt nhất trong cuộc đời tôi. Chúng tôi đã phải làm việc rất cực nhọc, nhưng nghĩ lại đó là thời gian xúc động tình người”. Đó đà câu trả lời của Daniel Nguyễn qua điện thư (email).
Từng chiếc thuyền con chở người tỵ nạn đến bờ biển Mã Lai, bỗng dưng gia tăng nhanh chóng như nước lũ làm cho các cơ quan thiện nguyện phải yêu cầu Liên Hiệp Quốc cũng như chính quyền Mã Lai giúp đỡ. Trong tháng Tám năm 1978, chính quyền Mã Lai lập trại tỵ nạn Pulau Bidong ngăn cách với công chúng. Vào lúc cao điểm, có đến 40 ngàn người tỵ nạn tạo nên một Saigon nhỏ với những kiến trúc bằng gỗ và kẽm. Từ đất liền Mã Lai có thể nhìn thấy đèn trên đảo, ngoại trừ giờ giới nghiêm (11 giờ 30 đêm đến 6 giờ sáng).
Giới thẩm quyền, Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc tài trợ trại tỵ nạn, trong khi hội Red Crescent (hình lưỡi liềm – như hội Hồng Thập Tự) người Mã Lai lo việc điều hành trại tỵ nạn. Họ xây dựng trong trại một trung tâm hành chánh, một trường học, một nhà thương và một thư viện. Họ cũng để cho người tỵ nạn mở quán hàng buôn bán trong trại. Những người tỵ nạn nhiều đức tin, xây dựng thêm một ngôi chùa và một nhà thờ mà vẫn còn đứng vững cho đến ngày nay.
Năm 1989, chính quyền Việt Nam đồng ý cho người tỵ nạn hồi hương, chấm dứt câu chuyện tỵ nạn, vấn đề thuyền nhân. Đến năm 1991, đảo Pulau Bidong không còn được dùng làm trại tỵ nạn, chính quyền trung ương Mã Lai trả lại cho chính quyền Terengganu. Tuy nhiên quy chế (khu vực cấm) vẫn dây dưa đến năm 1999. Ngay cả du khách đến thăm viếng vẫn không được phép chụp ảnh và hải đảo có cảnh sát, binh sĩ Mã Lai canh gác.
Khi phóng viên báo chí, tờ “The Star’s WeekEnder” đến thăm Pulau Bidong trong tháng Sáu năm 1999, gần hết các kiến trúc trên đảo đã bị xụp đổ hoặc cây cối che phủ. Lúc tôi đến, vấn đề mục rữa trở nên bết, tôi bị xụp xuống sàn gỗ đang hư hại của nhà thờ.
Nếu thiên nhiên “bỏ qua” một kiến trúc nào đó, việc trộm cắp chắc chắn sẽ không tha. Kẻ trộm làm hư hại rất nhiều những đồ vật mang tính chất lịch sử hoặc có giá trị trong kỹ nghệ du lịch, sau năm 1999 khi PSA (có lẽ là một đảng phái chính trị) thắng cử trong tháng Mười Một năm 1999.
Theo lời một ngư dân điạ phương, không còn lính canh gác nữa (Rela) sau năm 1999. “Chính quyền PSA không muốn trả lương cho họ”. Sau đó nhiều kiến trúc trong trại tỵ nạn đã bị tháo gỡ và nhiều cái khác bị thiêu đốt (hai cái trong tháng Ba vừa qua).
Kiến trúc lớn làm trung tâm hành chánh đã bị tháo hết ván gỗ, chỉ còn lại nền xi măng. Tất cả những dụng cụ để lại trong xưởng dậy nghề đều bị đập phá. Sự hư hại lan qua mấy bức tượng trong chùa hay trong nhà thờ.
Tuy nhiên vẫn có mấy kiến trúc tồn tại qua bao năm tháng. Quan trọng nhất là bức tượng người cha lôi kéo con gái mình lên từ nước biển. Bức tượng vẫn còn đứng vững như đón chào du khách. Ngoài bức tượng còn những tấm bia bằng xi măng, thuyền nhân ghi khắc như lời tạ ơn đấng Tối Cao đã cứu sống họ qua cuộc hành trình nguy hiểm, và cũng để tưởng niệm những thuyền nhân kém may mắn. Những bia đá cho những ai chết trên đảo.
Những hư hại trên đảo không có nghiã chính quyền điạ phương không quan tâm đến việc bảo tồn trại tỵ nạn. Từ đầu năm 1992, một năm sau khi Pulau Bidong được trả lại cho chính quyền Terengganu, được biết chính quyền điạ phương đã có dự án bảo trì trại tỵ nạn để thuyền nhân có thể trở về thăm viếng.
Điều đáng buồn là sau đó, chẳng ai nhắc đến dự án. Nhưng mới đây, câu chuyện Pulau Bidong và thuyền nhân như sống lại, viện bảo tàng Terengganu mở cuộc triển lãm kéo dài một tháng, trưng bầy hình ảnh trại tỵ nạn. Theo lời phó giám đốc viện bảo tàng, Che Mohd Azmi Ngah, việc triển lãm để cho mọi người biết lịch sử hấp dẫn của đảo Pulau Bidong mà nhiều người Mã Lai không biết đến chuyện này.
“Kết cuộc, nhiều vật lưu niệm trên đảo đã bị lấy mất, phần lớn do các ngư dân điạ phương. Hy vọng cuộc triển lãm sẽ nhiều người chú ý và chính quyền sẽ phải bảo vệ những gì còn lại của trại tỵ nạn”. Che Mohd nói thêm, từ đầu năm chính quyền điạ phương đã có buổi hội thảo với các cơ quan trong vấn đề phát triển đảo Pulau Bidong.
Trong khi chính quyền điạ phương hứng khởi về kỹ nghệ du lịch, hai câu hỏi được đặt ra: Du khách là những ai? Và ai sẽ lo việc bảo trì? Theo lời Alex Lee, giám đốc công ty du lịch Ping Anchorage Travel, văn phòng ở Terengganu, có vài nhóm muốn xây dựng kỹ nghệ du lịch trên đảo. “Tuy nhiên, tôi không đồng ý chuyện này, chính quyền điạ phương nên bảo trì trại tỵ nạn như chính quyền tiểu bang California bảo quản khu phố xưa thời gian đi tìm vàng (gold rush).” Cũng theo ông Lee, lịch sử đảo Pulau Bidong rất lôi cuốn, tuy nhiên cần phải tu sửa, bảo trì trước.
Theo ông Nguyễn, ông ta tin rằng nhiều cựu thuyền nhân muốn quay trở về để thăm viếng. “Tuy nhiên còn nhiều khiá cạnh khác. Nhiều người cho rằng những kỷ niệm “làm thuyển nhân” rất đau lòng để làm sống lại. Nhiều phụ nữ, con gái bị hải tặc cưỡng bức, đàn ông bị đánh đập, giết chết. Thêm sự sỉ nhục là một người tỵ nạn.”
Theo ông ta chuyến viếng thăm Pulau Bidong trong tháng Ba vừa qua là một chuyến đi hành hương, chuyện tinh thần cá nhân. “Cá nhân tôi muốn ở lại qua đêm nếu được phép. Khi các con tôi khôn lớn, tôi muốn đưa chúng đi thăm Pulau Bidong để chúng biết thêm về lịch sử gia đình mình”.
Ông Nguyễn thông cảm, sự tốn kém trong việc bảo trì trại tỵ nạn Paulau Bidong. Tuy nhiên sự hủy hoại gây cảm tưởng như mất mát một điều gì… Đó cũng là một phần của chúng tôi, một phần trong lịch sử Mã Lai.
Sungkyunkwan University
Department of Computer EducationMarch 23, 2012
vđh
<><><><><><><><><><><><><><><><><><> <> <> <><><><><><><><><><> <><><><> <><><><> <><>
Forgotten isle
Pulau Bidong's unusual past as a refugee camp has become a quiet tourist draw for many former Vietnamese boat people, a development that was noted by Culture, Youth and Tourism Minister Datuk Paduka Abdul Kadir Sheikh Fadzir in Parliament on Wednesday. Yet, nothing has been done to preserve the poignant remains of the one bustling camp, reports MENG YEW CHOONG.
Pulau Bidong's unusual past as a refugee camp has become a quiet tourist draw for many former Vietnamese boat people, a development that was noted by Culture, Youth and Tourism Minister Datuk Paduka Abdul Kadir Sheikh Fadzir in Parliament on Wednesday. Yet, nothing has been done to preserve the poignant remains of the one bustling camp, reports MENG YEW CHOONG.
Sunday, September 29, 2002
Forgotten isle
Photos by Meng Yew Choong
Pulau Bidong's unusual past as a refugee camp has become a quiet tourist draw for many former Vietnamese boat people, a development that was noted by Culture, Youth and Tourism Minister Datuk Paduka Abdul Kadir Sheikh Fadzir in Parliament on Wednesday. Yet, nothing has been done to preserve the poignant remains of the one bustling camp, reports MENG YEW CHOONG.
COMING back to Bidong, I was reminded once again of the powerful forces of nature and how lucky we were to have survived that journey in a leaky boat 10.5m long with 61 people on board. I was reminded of the dark-skinned Malay men in sarong in two boats who were so kind to give us water and food to carry on. Yes, I met them again last March. They are the heroes and the angels in my heart. I will never forget those images for the rest of my life. On this trip, I was also reminded that most people are good people. It was a beautiful feeling to realise that people whom I had never known or met would extend a helping hand and set aside an island for our temporary housing needs. – Daniel Nguyen, former Pulau Bidong boat person
Daniel Nguyen was among the 1.6 million Vietnamese who, from 1975 to the late 1980s, made the perilous journey across the South China Sea from their troubled homeland in search of a safe haven.
Nearly 255,000 of them ended up on the shores of Malaysia and most were placed on the tiny island of Bidong, off Terengganu.
But Bidong is a name that does not ring a bell among the younger generation of Malaysians today. My colleague who is nearly 30 years old had never heard of the island. For those who have, their knowledge is vague and they do not fully understand the significance of that 260ha isle.
For a bit of history, the first batch of boat people (the popular term for them) fled South Vietnam after the communist North captured the capital, Saigon (since renamed Ho Chi Minh City) in 1975.
However, the situation took a turn for the worse in 1978 when China invaded the northern part of the newly-reunified Vietnam, which gave rise to fierce sentiments against the minority Vietnamese of Chinese descent.
With their assets being seized by the government, and their businesses grinding to a halt, many ethnic Chinese resorted to buying a safe passage out of their own country by paying hefty prices in gold.
And thus began the huge exodus of the Vietnamese in often grossly overloaded un-seaworthy vessels across the ocean in their quest for a better tomorrow. That was how Nguyen arrived, too.
He landed on the shores of Malaysia in the evening hours of April 14, 1980. Two days later, he was transferred to Bidong. He left the island seven months later for resettlement in the United States.
Although living conditions on the island were far from ideal, it represented a sanctuary to those fleeing a repressive communist regime at that time.
“In retrospect, the time I spent in Bidong was one of the most special in my life. We had to work very hard but when I look back, it was a heart-warming experience,’’ said Nguyen via e-mail.
The trickle of refugees arriving on the shores of Malaysia turned into a flood in no time, and the overwhelmed non-governmental organisations had to appeal to the United Nations and the Malaysian Government for help.
In August 1978, the Government gazetted Bidong as a refugee camp and it became off limits to the public.
At its height, Bidong had some 40,000 refugees at any given time and it was a veritable mini-Saigon with its sprawling settlements of wood and zinc. From the mainland, the island lights were visible at night (at least before the curfew hours of 11.30pm to 6am).
The authorities – UN’s High Commissioner for Refugees sponsored the camp while the Malaysian Red Crescent Society ran the daily operations – had built an administration centre, a school, a clinic, a library and had allowed the refugees to set up shops. The faithful among them built a Buddhist temple as well as a Catholic church, which still stand today.
In 1989, Vietnam agreed to the repatriation of the boat people which finally ended the sea exodus of its people.
By 1991, Bidong was no longer needed as a refugee detention centre and the Federal Government officially handed back the island to the Terengganu government. But its status as a restricted zone lingered until 1999.
Even when visitors were finally allowed, no photography was allowed and the island remained under guard.
When The Star’s WeekEnder visited it in June 1999, most of the buildings were already on the verge of collapse or largely overgrown.
When I visited a fortnight ago, the rot had gotten even worse; I fell through the rotted wooden flooring of the church.
Even if nature had left some things alone, vandals certainly had not. They did a lot of damage to relics with historical value (and tourism potential) after 1999, when the PAS won the state in the November 1999 general election.
According to a local boatman, there were no more Rela (Home Guard) members on duty after 1999 as the “PAS government did not want to pay for them”.
Since then, many buildings have been stripped of their planks, and quite a few had been torched (two of them as recently as March).
The only jetty serving the island had also been completely stripped of its wood, and only its concrete foundations remain. Whatever equipment that remained in the vocational workshops had been smashed, and the damage also extended to religious statues in the temple and church.
However, some structures have survived unscathed through it all, and the most important one is the statue of a father pulling his daughter out of the sea that greets visitors near the site of the former jetty.
Also surviving are the numerous cement plaques expressing the boat people’s sense of profound gratitude to the Almighty for having survived the journey, as well as to remember those who did not. Gravestones marking those burial plots of those who died on the way, or on the island, can also be found if one knows where to look for them.
This does not mean that there has been no interest from the state government in preserving the structures in the camp. As early as 1992, a year after the Feds handed the island back to Terengganu, it was reported that there was a proposal to preserve the relics so that former boat people could return and see their past.
Sadly, nothing ever materialised. But interest seems to have been revived: the Terengganu state museum is holding a month-long photo exhibition till Oct 6.
According to the museum’s deputy director, Che Mohd Azmi Ngah, the exhibition is to raise awareness of the island’s interesting past as “many Malaysians have absolutely no idea about the place”.
“And as a result, many of the relics on the island are being vandalised, mostly by local fishermen.
“It is hoped that with greater awareness among the people, the authorities would be spurred to undertake some form of preservation of whatever that remains there now,’’ explained Mohd Azmi.
He added that the state government also held an inter-agency workshop early this year on how to best develop the island.
While it appears that the state government appreciates Bidong’s tourism potential, the big question is: What kind of tourism? And, more importantly, who is going to restore the relics first?
According to Alex Lee, proprietor of Kuala Terengganu-based Ping Anchorage Travel and Tours, there has been interest by some parties in building resorts on the island.
“However, I’m against mass resort-style development for Bidong. Instead, the state should establish heritage development similar to what was done with the abandoned towns of the California gold rush.
“As nearby Pulau Redang and Tioman (off Pahang) are already very developed and commercialised, Bidong should be developed in a different way,’’ said Lee, whose company is the sole tour operator that offers a day-trip package to Bidong with a Kuala Terengganu tour thrown in.
Granted, the refugees themselves also did a lot of damage to Bidong as they stripped the island of a lot of vegetation. It is also undeniable that the construction of the jetty and the mooring of supply ships also damaged the corals at the beachfront more than two decades ago.
But in comparison to other islands, Bidong is still in pristine condition and should kept that way, said Lee.
To him, Bidong’s history is the main selling point, with its marine life a close second. “But someone would have to restore the island first.’’
In this regard, it is unlikely that the state will fork out the money for it. “The state museum alone cannot pay for the Bidong Memorial as we are cash-strapped,’’ said Mohd Azmi.
Nevertheless, irrespective of how Bidong looks like today, there is no lack of interest from the former Bidong dwellers (and their offspring).
Nguyen said he believed most of Bidong’s refugees were “definitely receptive” to going back to visit.
“However, there are other factors as well. For many people, the memories of being a boat people are too painful to re-live. Girls and women were raped by pirates and men were beaten and killed. There’s also the humiliation of being a refugee...” he said.
For him, his visit to Bidong in March was “like a spiritual and personal pilgrimage.”
“Personally, I would have liked to stay overnight if I could. When my kids are old enough, I would like to take them to Bidong to see their family history.”
Nguyen added that he “understood the economics of not maintaining Bidong” so he did not grieve.
“Still, I felt a sense of loss to see it abandoned like that. Bidong was a painful experience that we (former refugees) don’t want to re-live. However, it’s a part of our heritage as much as it’s a permanent part of Malaysian history now.
“Ideally we should work together to maintain a cultural sanctuary for Bidong. It should remain a beacon of freedom, a symbol of Malaysian charity and hospitality and a gesture of friendship between two peoples.
“The boat people created a memorial on the island dedicated to the cause and the Malaysian people. It should be something all boat people should take their children (born in the United States, Canada, Australia, France, Germany, etc) to see.
“But it should be seen by all Malaysians as well.”
<><><><><><><><><><><><><><><><><><> <> <> <><><><><><><><><><> <><><><> <><><><> <><>
Sunday, September 29, 2002
Getting to Bidong
PING Anchorage Travel and Tours started its Bidong package in 1999, and, thus far, the majority of tourists are Vietnamese and Western nationals.
In fact, the company is in talks with foreign tour operators to bring in a large group of former boat people for a reunion on Bidong some time next year.
“We will try to sell it as a package for no one will fly in here just to see Bidong. We’ll probably have to throw in Kuala Lumpur and Kuala Terengganu tours to complement the package, which can then sell year after year. Vietnamese agents in the United States and Europe have made enquiries and some have even surveyed the island,’’ said Alex Lee, proprietor of the Terengganu-based company Sadly, most Malaysians are not particularly interested in the historical aspects of Bidong.
Said Lee: “Marketing the heritage part alone to Malaysians will not work, although public awareness of it is slowly growing. Given that Malaysians are not heritage-conscious, we have to sell the colourful fishes as well. So far, local tourists only come ashore to take a cursory glance at the campsite, then hurry off to snorkel or to dive.
One can hardly blame them: Pulau Bidong is a sad, rotting shell of its past as a bustling refugee camp.
In its heyday, this once bustling “township” had amenities like hair and nail salons (separate ones for men and women), bakeries, a music shop, noodle shops, and a stage for weekly cultural and musical performances.
However, it is hard to tell what structure is a bakery or a nail salon, for the signs are no longer around and the structures, built mostly of wood, are in a terrible state.
Thankfully, four of the most important relics on Bidong are still pretty much intact, despite the effects of of the weather and acts of vandalism largely attributed to uneducated local fishermen who stop over on the island to rest.
These relics are the Buddhist temple (with a statue of Guan Yin, or Goddess of Mercy, still intact), the Catholic church (the crucifix and the statue of Christ can still be seen), and two cement memorials with very touching words (some in English) inscribed on them.
In addition, there are two cemeteries on the island where the boat people were buried according to their respective faiths (most were Buddhist, Catholic or Cao-Daist).
Visitors normally take a speedboat to Bidong, which is 20 nautical miles from Kampung Merang, a sleepy fishing village located 30km from Kuala Terengganu town.
If sea conditions are right, the ride takes about 30 minutes.
On Bidong, you will be given a guided tour (how long the tour is depends on how much you really want to see) before you are ushered away to do some snorkelling nearby.
Of course, if you just want to see historical Bidong, the boatman will gladly oblige. Just don’t expect your guide to know everything about the former Vietnamese camp as they tend to be rather young chaps who had never been to Bidong when it was still a refugee camp – no fault of theirs, for the island was off limits to the public anyway back then.
n Ping Anchorage’s Bidong Island Plus package (ex-Kuala Terengganu) offers a three-day, two-night package that gives you a good glimpse of Kuala Terengganu in addition to Bidong. If you prefer to tailor the package to your own special requirements, contact the company at 09-626-2020, or visit it at www.pinganchorage.com.my An alternative to packaged tours is just to hire your own boat from Kampung Merang. The rate is RM380 (round trip) for a speedboat that comfortably seats eight adults. Larger boats are also available, and the friendly folks at Kampung Merang will gladly arrange one for you if the price is right.
<><><><><><><><><><><><><><><><><><> <> <> <><><><><><><><><><> <><><><> <><><><> <><>
|
HẢI ĐẢO BỊ LÃNG QUÊN
Pulau Bidong có một lịch sử khác thường từ một trại tỵ nạn, hải đảo này đã âm thầm trở nên một điạ điểm thăm viếng cho các du khách cựu thuyền nhân. Đó là điều ghi nhận được Bộ Trưởng Văn Hóa, Thanh Niên và Du Lịch, Datuk Paduka Abdul Kadir Sheikh Fadzir trình trước Quốc Hội hôm thứ Tư vừa qua. Tuy vậy, vẫn chưa có một điều nào được thực hiện để bảo tồn trại tỵ nạn cũ, một thời đông đảo. Phóng viên Meng Yew Choong.
Lần trở lại Bidong, tôi được nhắc nhở lần nữa về sức mạnh của thiên nhiên và những thuyền nhân chúng tôi đã may mắn đến cỡ nào, sống sót qua chuyến hải hành dài, trên một con thuyền mong manh dài 10,5 mét chứa 61 người. Tôi nhớ đến những người đàn ông Mã Lai da ngăm đen, quấn sà rông (sarong) đi trên hai chiếc thuyền, đã rất tử tế cho chúng tôi nước uống và thực phẩm. Đúng thế, tôi đã gặp lại họ trong chuyến viếng thăm tháng Ba vừa qua. Họ là những vị anh hùng, những thiên thần trong tim và tôi sẽ không bao giờ quên những hình ảnh của họ. Cũng trong chuyến đi này, tôi muốn nói, hầu hết tất cả đều là những người tốt. Một ấn tượng đẹp đẽ khi biết rằng, có những người không quen biết hoặc chưa từng gặp vẫn mở rộng vòng tay giúp đỡ cho chúng tôi tạm trú. Daniel Nguyễn, cựu thuyền nhân Pulau Bidong.
Daniel Nguyễn là một trong số 1,6 triệu người Việt Nam, từ năm 1975 đến cuối thập niên 1980s, đã làm một cuộc hành trình đầy nguy hiểm, băng qua biển Nam Hải tìm tự do. Gần 255 ngàn người tỵ nạn đã đến được bờ biển Mã Lai và đa số được đưa đến hải đảo Pulau Bidong thuộc Terengganu.
Nhưng tên Bidong nghe rất xa lạ trong thế hệ trẻ người Mã Lai sau này. Một người bạn học của tôi, đã gần 30 tuổi đời vẫn chưa hề nghe nói đến hải đảo này. Một số ít người khác, sự hiểu biết của họ rất mơ hồ, không hoàn toàn biết rõ những chuyện xẩy ra trên hải đảo rộng 260 mẫu.
Nói sơ qua về lịch sử, đợt thuyền nhân (danh từ thường dùng để gọi những người tỵ nạn bằng thuyền) đầu tiên rời bỏ miền nam Việt Nam, sau khi cộng sản miền bắc chiếm được thủ đô Saigon năm 1975. Đến năm 1978, tình hình Việt Nam trở nên bết khi người Trung Hoa xâm lăng khu vực phiá bắc Việt Nam, gây nên sự nghi kỵ nhóm thiểu số người Việt gốc Hoa. Trong khi tài sản của họ bị chính quyền tịch thâu, việc làm ăn buôn bán của họ gần như bị chận đứng, nhiều người Hoa đã mua “giấy thông hành” ra khỏi nước, trả bằng vàng để được an toàn ra đi.
Và từ đó, đưa đến một phong trào di cư khổng lồ của người Việt Nam, trên những chiếc thuyền mong manh, vượt đại dương đi tìm một tương lai tốt đẹp hơn. Đó cũng là phương tiện để Daniel Nguyễn đến Pulau Bidong.
Ông ta đến bờ biển Mã Lai vào buổi tối hôm 14 tháng Tư năm 1980, và hai ngày sau được đưa đến đảo Pulau Bidong. Bẩy tháng sau, Daniel Nguyễn giã từ hải đảo để đi định cư tại Hoa Hỳ.
Mặc dầu điều kiện sinh sống trên đảo không được đầy đủ nhưng Pulau Bidong là một nơi dung thân cho những ai trốn tránh sự đàn áp của chế độ cộng sản, vào thời điểm đó. “Nhìn lại, thời gian tôi trải qua nơi trại tỵ nạn Pulau Bidong là một giai đoạn đặc biệt nhất trong cuộc đời tôi. Chúng tôi đã phải làm việc rất cực nhọc, nhưng nghĩ lại đó là thời gian xúc động tình người”. Đó đà câu trả lời của Daniel Nguyễn qua điện thư (email).
Từng chiếc thuyền con chở người tỵ nạn đến bờ biển Mã Lai, bỗng dưng gia tăng nhanh chóng như nước lũ làm cho các cơ quan thiện nguyện phải yêu cầu Liên Hiệp Quốc cũng như chính quyền Mã Lai giúp đỡ. Trong tháng Tám năm 1978, chính quyền Mã Lai lập trại tỵ nạn Pulau Bidong ngăn cách với công chúng. Vào lúc cao điểm, có đến 40 ngàn người tỵ nạn tạo nên một Saigon nhỏ với những kiến trúc bằng gỗ và kẽm. Từ đất liền Mã Lai có thể nhìn thấy đèn trên đảo, ngoại trừ giờ giới nghiêm (11 giờ 30 đêm đến 6 giờ sáng).
Giới thẩm quyền, Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc tài trợ trại tỵ nạn, trong khi hội Red Crescent (hình lưỡi liềm – như hội Hồng Thập Tự) người Mã Lai lo việc điều hành trại tỵ nạn. Họ xây dựng trong trại một trung tâm hành chánh, một trường học, một nhà thương và một thư viện. Họ cũng để cho người tỵ nạn mở quán hàng buôn bán trong trại. Những người tỵ nạn nhiều đức tin, xây dựng thêm một ngôi chùa và một nhà thờ mà vẫn còn đứng vững cho đến ngày nay.
Năm 1989, chính quyền Việt Nam đồng ý cho người tỵ nạn hồi hương, chấm dứt câu chuyện tỵ nạn, vấn đề thuyền nhân. Đến năm 1991, đảo Pulau Bidong không còn được dùng làm trại tỵ nạn, chính quyền trung ương Mã Lai trả lại cho chính quyền Terengganu. Tuy nhiên quy chế (khu vực cấm) vẫn dây dưa đến năm 1999. Ngay cả du khách đến thăm viếng vẫn không được phép chụp ảnh và hải đảo có cảnh sát, binh sĩ Mã Lai canh gác.
Khi phóng viên báo chí, tờ “The Star’s WeekEnder” đến thăm Pulau Bidong trong tháng Sáu năm 1999, gần hết các kiến trúc trên đảo đã bị xụp đổ hoặc cây cối che phủ. Lúc tôi đến, vấn đề mục rữa trở nên bết, tôi bị xụp xuống sàn gỗ đang hư hại của nhà thờ.
Nếu thiên nhiên “bỏ qua” một kiến trúc nào đó, việc trộm cắp chắc chắn sẽ không tha. Kẻ trộm làm hư hại rất nhiều những đồ vật mang tính chất lịch sử hoặc có giá trị trong kỹ nghệ du lịch, sau năm 1999 khi PSA (có lẽ là một đảng phái chính trị) thắng cử trong tháng Mười Một năm 1999.
Theo lời một ngư dân điạ phương, không còn lính canh gác nữa (Rela) sau năm 1999. “Chính quyền PSA không muốn trả lương cho họ”. Sau đó nhiều kiến trúc trong trại tỵ nạn đã bị tháo gỡ và nhiều cái khác bị thiêu đốt (hai cái trong tháng Ba vừa qua).
Kiến trúc lớn làm trung tâm hành chánh đã bị tháo hết ván gỗ, chỉ còn lại nền xi măng. Tất cả những dụng cụ để lại trong xưởng dậy nghề đều bị đập phá. Sự hư hại lan qua mấy bức tượng trong chùa hay trong nhà thờ.
Tuy nhiên vẫn có mấy kiến trúc tồn tại qua bao năm tháng. Quan trọng nhất là bức tượng người cha lôi kéo con gái mình lên từ nước biển. Bức tượng vẫn còn đứng vững như đón chào du khách. Ngoài bức tượng còn những tấm bia bằng xi măng, thuyền nhân ghi khắc như lời tạ ơn đấng Tối Cao đã cứu sống họ qua cuộc hành trình nguy hiểm, và cũng để tưởng niệm những thuyền nhân kém may mắn. Những bia đá cho những ai chết trên đảo.
Những hư hại trên đảo không có nghiã chính quyền điạ phương không quan tâm đến việc bảo tồn trại tỵ nạn. Từ đầu năm 1992, một năm sau khi Pulau Bidong được trả lại cho chính quyền Terengganu, được biết chính quyền điạ phương đã có dự án bảo trì trại tỵ nạn để thuyền nhân có thể trở về thăm viếng.
Điều đáng buồn là sau đó, chẳng ai nhắc đến dự án. Nhưng mới đây, câu chuyện Pulau Bidong và thuyền nhân như sống lại, viện bảo tàng Terengganu mở cuộc triển lãm kéo dài một tháng, trưng bầy hình ảnh trại tỵ nạn. Theo lời phó giám đốc viện bảo tàng, Che Mohd Azmi Ngah, việc triển lãm để cho mọi người biết lịch sử hấp dẫn của đảo Pulau Bidong mà nhiều người Mã Lai không biết đến chuyện này.
“Kết cuộc, nhiều vật lưu niệm trên đảo đã bị lấy mất, phần lớn do các ngư dân điạ phương. Hy vọng cuộc triển lãm sẽ nhiều người chú ý và chính quyền sẽ phải bảo vệ những gì còn lại của trại tỵ nạn”. Che Mohd nói thêm, từ đầu năm chính quyền điạ phương đã có buổi hội thảo với các cơ quan trong vấn đề phát triển đảo Pulau Bidong.
Trong khi chính quyền điạ phương hứng khởi về kỹ nghệ du lịch, hai câu hỏi được đặt ra: Du khách là những ai? Và ai sẽ lo việc bảo trì? Theo lời Alex Lee, giám đốc công ty du lịch Ping Anchorage Travel, văn phòng ở Terengganu, có vài nhóm muốn xây dựng kỹ nghệ du lịch trên đảo. “Tuy nhiên, tôi không đồng ý chuyện này, chính quyền điạ phương nên bảo trì trại tỵ nạn như chính quyền tiểu bang California bảo quản khu phố xưa thời gian đi tìm vàng (gold rush).” Cũng theo ông Lee, lịch sử đảo Pulau Bidong rất lôi cuốn, tuy nhiên cần phải tu sửa, bảo trì trước.
Theo ông Nguyễn, ông ta tin rằng nhiều cựu thuyền nhân muốn quay trở về để thăm viếng. “Tuy nhiên còn nhiều khiá cạnh khác. Nhiều người cho rằng những kỷ niệm “làm thuyển nhân” rất đau lòng để làm sống lại. Nhiều phụ nữ, con gái bị hải tặc cưỡng bức, đàn ông bị đánh đập, giết chết. Thêm sự sỉ nhục là một người tỵ nạn.”
Theo ông ta chuyến viếng thăm Pulau Bidong trong tháng Ba vừa qua là một chuyến đi hành hương, chuyện tinh thần cá nhân. “Cá nhân tôi muốn ở lại qua đêm nếu được phép. Khi các con tôi khôn lớn, tôi muốn đưa chúng đi thăm Pulau Bidong để chúng biết thêm về lịch sử gia đình mình”.
Ông Nguyễn thông cảm, sự tốn kém trong việc bảo trì trại tỵ nạn Paulau Bidong. Tuy nhiên sự hủy hoại gây cảm tưởng như mất mát một điều gì… Đó cũng là một phần của chúng tôi, một phần trong lịch sử Mã Lai.
Sungkyunkwan University
Department of Computer Education
March 23, 2012
vđh
Hôm nay tôi mới biết về bidong,một lịch sữ đau thương của dân tộc ,trước đây có nghe về địa danh này qua bài hát do ca sĩ Hùng Cường hát,giờ đọc mấy bài viết khi tra google hai chữ bidong,tôi đọc mà nước mắt như chục tuôn trào (tôi hiện ở VN người gốc SG)
ReplyDelete