|
|
Tác giả Bùi Văn Phú từng làm việc tại các trại tị nạn Ðông Nam Á
trong thập niên 1980.
Trong bài đầu tiên của loạt bài viết cho BBC nhân 30 năm
kết thúc chiến tranh, tác giả chiêm nghiệm về thân phận của những
thuyền nhân Việt Nam.
Ba mươi năm sau cuộc chiến, cả triệu người Việt
đã bỏ nước ra đi, từ đợt di tản tháng 4 năm 1975, rồi chuyện vượt biên, chuyện
đoàn tụ gia đình (O.D.P.), con lai, tù cải tạo (H.O.), đến diện thuyền nhân hồi
hương (R.O.V.R.) sau này, tất cả đều trải qua nhiều lo sợ bất định không biết
giấc mơ được rời khỏi Việt Nam có sẽ suông sẻ hay không. Chỉ khi đã đến được nơi
định cư thì hành trình đó mới coi như kết thúc.
Con đường vượt biên, kéo dài hai thập niên sau 1975, có đông người
ra đi nhất và cũng là con đường gian nan nhất. Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc ước
lượng một phần ba số người vượt biển, khoảng vài trăm nghìn, đã không đến được
bến bờ.
Qua nhiều chuyện kể trong "Hành Trình Biển Ðông", những người rời
Việt Nam ra đi tìm tự do bằng đường biển, đường bộ, hay bằng cả hai cách, đều
biết rõ trong quyết định ra đi của mình thì may mắn sống còn chỉ có một phần ba.
Câu nói: "Một là con nuôi má, hai là má nuôi con, ba là con nuôi
cá" được người vượt biển suy ngẫm trước khi ra đi và chỉ biết cầu xin Trời Phật
cho số mệnh được bình yên.
| <><>
>
|
Rất nhiều trong số 46 chuyện kể là hoàn cảnh khốn cùng của những
tàu vượt biển gặp nạn: lạc đường, chết khát, bị hải tặc cướp, hãm hiếp, có khi
cả chục lần.
Câu chuyện của một con tàu ra đi từ vùng Cái Sắn, Rạch Giá vào
tháng Ba năm 1977 có lẽ hãi hùng hơn cả. Tàu bị hải tặc cướp, hãm hiếp.
Khi bị tấn công lần thứ nhì, đám thanh niên nhất quyết chống lại
và 62 thuyền nhân đã bị chúng giết, chỉ còn một người sống sót vì bị những xác
chết khác đè lên.
Cảnh người thuyền nhân duy nhất giữa đống xác người đầy máu tựa
như cảnh phóng viên Cam Bốt Dith Pran lội bùn giữa những cánh đồng chết chóc đầy
xương và sọ người trên đường trốn chạy bàn tay Khờ Me Ðỏ trong phim "Killing
Field", hay cảnh phi công Mỹ rớt máy bay, trên đường trốn thoát đã đi lạc vào
một vũng lầy ngổn ngang xác người ở Bosnia-Kosovo trong phim "Behind Enemy
Lines".
Có những con thuyền lạc đường, cạn thức ăn, nước uống nên người đã
phải ăn thịt người để sống, mẹ phải cắt vú mình lấy máu cho con bú kẻo không đứa
bé chết khát. Nhiều người đã chết vì đói khát, người thoi thóp sống lo thủy táng
người chết và chỉ còn biết cầu xin người đã chết phù hộ. Có khi những điều khấn
xin được đáp lại bằng những cơn mưa hoặc được tàu lớn cứu vớt.
Tháng Bảy năm 1979 có một tàu vượt biển bị bão đánh vỡ ra từng
mảng, 350 người chỉ còn 14 sống sót và đã có một hài nhi ra đời giữa lòng biển
khơi trong khi người mẹ, tuổi chừng 30, đang bám víu lấy mạng sống trên một
chiếc bè trôi nổi mà người đỡ đẻ lại là một nam học sinh ở tuổi 17.
Câu chuyện vượt biển này tưởng như kết thúc ở bến bờ tự do, nhưng
14 người sống sót lại được tàu đánh cá của Việt Nam vớt, đưa trở về điểm khởi
hành. Không biết số mạng của đứa bé trai sinh giữa lòng biển khơi giờ đây ra
sao? Còn sống, năm nay em đã 26 tuổi.
| <><>
>
|
Sau nhiều ngày mất phương hướng vì tàu hỏng máy, thấy một bình
nhựa trôi trên biển nên anh nhảy xuống vớt với hy vọng tìm được nhãn hiệu hay
một dấu chỉ nào để biết tàu đang trôi dạt nơi đâu, có gần bờ bến không.
Dưới nước anh Hoàng nắm được bình, nhưng con tàu bỗng trôi nhanh
khiến anh bơi đuổi không kịp. Nhiều người trên tàu ném hết mọi thứ có thể nổi để
anh bám vào, nhưng chẳng cứu anh được. Con tàu hỏng máy đã bỏ anh lại.
Trong một chuyện kể khác, cũng là trường hợp tàu hư, lạc đường vào
năm 198.
Sau nhiều ngày đói khát, tàu trôi dạt đến gần một đảo hoang, bốn
thanh niên nhảy xuống bơi vào tìm xem có sự sống, thức ăn hay không. Khi họ bơi
trở ra thì con tàu lại cứ trôi xa đảo, bỏ lại bốn thanh niên.
May mắn thoát hiểm nguy trên biển, đến được đất liền nhưng cũng
chẳng có cơ hội định cư. Ðó là câu chuyện về chị Nguyệt một mình đến được trại,
ở lâu vì không có diện định cư nên phải bán mình nuôi thân, nuôi gia đình còn ở
Việt Nam. Chị mua hương bán phấn với lính Thái, mang thai, xấu hổ quá chị tự
tử.
Cuộc sống trong trại tị nạn chỉ tạm bợ nhưng cũng nhiều buồn vui.
Một thiếu nữ được tàu Mỹ vớt, chăm lo mọi thứ từ đồ ăn thức uống, quần áo được
giặt bằng máy nên cô lạc mất chiếc nịt ngực. Khi chuyển vào trại, ra đường không
có nịt ngực, thường bị nhiều chàng thanh niên dòm ngó, chọc ghẹo khiến cô luôn e
thẹn và cảm thấy sự thiếu vắng một vật đã thường mang trên người như là mất mát,
thiếu thốn một cái gì thân thương lắm.
Khi làn sóng người vượt biển lên cao, chính phủ các nước Ðông Nam
Á có lệnh không cho ngư dân của họ cứu vớt thuyền nhân. Nhiều tàu bè quốc tế
cũng đã làm ngơ trước tín hiệu SOS của thuyền gặp nạn. Nhưng không phải tất cả
thuyền trưởng đều quay mặt đi.
Có những câu chuyện thuyền trưởng tàu Phi Luật Tân, tàu Nhật, tàu
Mỹ vì lương tâm đã cứu vớt nhiều người vượt biển được kể lại. Ngay cả khi hải
tặc Thái Lan tạo kinh hoàng cũng có những ngư dân Thái cứu người vượt biển, đem
họ vào bến bờ bình an.
Có người thương binh một chân, là cựu đai úy trong quân đội Thái,
đã nhỏ nước mắt khi nhìn thấy một em bé Việt Nam chỉ còn da bọc xương trên tay
người mẹ đang đi tìm sữa. Ông đã cho bà 20 đồng baht để bà ra chợ mua sữa cho
đứa bé.
Hai thập niên trước, thảm trạng của thuyền nhân đã được ghi lại
trong tập tài liệu Hải Tặc Trong Vịnh Thái Lan do nhà văn Nhật Tiến và ký giả
Dương Phục kể.
Nhiều trong số 46 bài viết là tự truyện của những tác giả không
phải là người cầm bút chuyên nghiệp hay có tài năng văn chương. Họ kể lại bằng
lối văn mộc mạc, chân thành. Ðó là những câu chuyện có thực, rất thực.
Trong thế kỷ vừa qua thế giới đã chứng kiến nhiều vụ giết người
tập thể: lò hơi ngạt giết người Do Thái trong các trại tập trung; Khờ Me Ðỏ tàn
sát người Cam Bốt; dân bộ lạc ở Rwanda, Châu Phi giết nhau; diệt chủng ở
Bosnia-Kosovo. Ở những nơi này ngày nay còn nhiều chứng tích để lại như một nhắc
nhở cho nhân loại.
Nhưng hàng trăm ngàn thuyền nhân đã bỏ mình, thân xác họ chìm sâu
trong lòng biển cả. Còn chăng là một số hình ảnh của Cao Ủy Tị Nạn ghi lại những
xác người, màu đỏ đen, da dính vào xương, nằm phơi trên đồi san hô giữa biển
cả.
"Hành Trình Biển Ðông" chỉ là một phần nhỏ của thảm trạng thuyền
nhân vì còn nhiều những con tàu khác đã chìm sâu trong lòng đại dương mang theo
tất cả, không để lại dấu vết, không còn ai sống sót mà kể lại.
Ngoài chuyện kể, giờ cũng cần có một bảo tàng viện để lưu lại
chứng tích của một giai đoạn gian nan của những người vượt biên.
.....................................................................
Đăng Trần, Orange County
Bản thân tôi là thuyền-nhân và được tàu Cap Anamour (51/703) vớt & được đem tới trại tỵ nạn Palawan, Philippines (October 1981). Lúc bấy giờ, tôi chỉ được hơn 15 tuổi và có tên trong danh sách “nghĩa vụ quân sự/lao động” (vì là thành phần co cha, chú là sĩ-quan VNCH).
Bản thân tôi là thuyền-nhân và được tàu Cap Anamour (51/703) vớt & được đem tới trại tỵ nạn Palawan, Philippines (October 1981). Lúc bấy giờ, tôi chỉ được hơn 15 tuổi và có tên trong danh sách “nghĩa vụ quân sự/lao động” (vì là thành phần co cha, chú là sĩ-quan VNCH).
Như bao mọi người Mẹ VN khác, Mẹ tôi đã đau xót, cắn răng đưa
nấm-ruột của Bà đi tìm Tự-Do. Ôi, đau đớn thay cho câu “ca-dao” thời bâ’y giờ:
"Một là con nuôi má, hai là má nuôi con, ba là con nuôi cá". Mặc dầu đã gần 25
năm qua, những kỷ niệm hãi hùng về những ngày vượt biển vẫn còn ám ảnh trong tâm
khãm (kết quả là cho đến nay, tôi sợ nước và từ chối tất cả những chuyến đi
“cruise” do gia-đình và bè bạn tổ chức).
Tôi cũng đã bật khóc khi đọc lại cuốn tự truyện “Hành Trình Biển
Ðông” của nhiều nhân chứng. Trong đó có một tác giả đã kể lại sự hy-sinh của
người em gái (trong lúc đắm tàu) để cho cô được sống, để rồi cuối cùng chính bản
thân cô phải trả giá cho sự sống này. Có chua xót nào hơn nỗi chua xót này. Cám
ơn Ngụy Vũ, người đã có công gom góp và ấn bản tập sách này để cho thế giới và
thế hệ con em chúng ta hiểu và trân quí hai chữ Tự Do.
Trần Minh
Tôi đã đọc và nghe các cuộc hành trình vượt biển. Những chuyện thật khủng khiếp. Thật là tội nghiệp. Tôi nghe kể có những đứa bé sau khi trải qua sự khủng khiếp bị hải tặc nó câm luôn cả tuần không thốt ra một lời nào.
Tôi đã đọc và nghe các cuộc hành trình vượt biển. Những chuyện thật khủng khiếp. Thật là tội nghiệp. Tôi nghe kể có những đứa bé sau khi trải qua sự khủng khiếp bị hải tặc nó câm luôn cả tuần không thốt ra một lời nào.
Trên đường đi khi chưa ra biển bị bể mánh chạy tán loạn gặp mấy
tên dẫn đường rừng cầm những cây mã tấu sáng quắc lăm lăm đe doạ kẻ nào không có
tiền đưa thì ở lại trong rừng còn người nào có tiền đưa cho chúng chúng mới dẫn
đường quay trở về không thì cũng bỏ xác nơi rừng sâu núi thẳm.
Thế nhưng xét cho kỹ kẻ phải ở lại không phải là họ không can đảm
không khao khát tự do mà là vì những lý do khác. Ví dụ như không có vàng thì làm
sao vượt biên? Không yêu ai đó thì làm sao mà nhắm mắt lấy để được ai đó trả
tiền cho đi.? Và kẻ ở lại để đối đầu với cuộc sống ngoi lên từ những nhẫn nhục
đau khổ cũng là những người vô cùng can đảm.
Rất tiếc tôi không có thì giờ để viết tiếp câu truyện của tôi, nơi
ấy tôi sẽ nói lên thân phận của những con người như thế!
Nguyễn Nhân, Texas
Tôi là thuyền nhân đến trại Palawan, Bataan Phi luật tân. Tôi đã trải qua, tai nghe, mắt thấy những cảnh tượng hãi hùng đó. Tôi cũng đã từng đấu tranh, vận động chống hồi hương thuyền nhân. Khi đọc những dòng trên, tôi đã mũi lòng, rỡn tóc gáy và nhớ lại cuộc hành trình 25 năm trước như in trong tâm khảm cứ như là mới xảy ra hôm qua.
Tôi là thuyền nhân đến trại Palawan, Bataan Phi luật tân. Tôi đã trải qua, tai nghe, mắt thấy những cảnh tượng hãi hùng đó. Tôi cũng đã từng đấu tranh, vận động chống hồi hương thuyền nhân. Khi đọc những dòng trên, tôi đã mũi lòng, rỡn tóc gáy và nhớ lại cuộc hành trình 25 năm trước như in trong tâm khảm cứ như là mới xảy ra hôm qua.
Tôi rất cảm thông với các vị thuyền nhân, ai đã trải qua thân phận của những thuyền nhân mới cảm thông được.
Cuộc vượt biễn cuả người VN bất giác tôi mường tuong như cuộc trở về nơi nguồn cội cũa đàn cá hồi dù biết nhiều bất trắc và sẽ chết trên đường đi không về đến đích nhưng chúng vẫn lao về phía trước chấp nhận hy sinh,chỉ khác ở chổ người dân Việt thì bỏ cội nguồn nơi chôn nhau cắt rốn để tìm về chân trời xa lạ nhưng nơi ấy có hai chữ TỰ DO
ReplyDelete